[laodongthudo] Nhân lực chất lượng cao, chìa khóa bứt phá trong kỷ nguyên số

Trong kỷ nguyên số, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đều chịu tác động mạnh mẽ từ công nghệ. Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030, với kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP. Tuy nhiên, để hiện thực hóa tham vọng này, nhân lực chất lượng cao chính là yếu tố cốt lõi.

Kỳ 1: “Điểm nghẽn” hay bệ phóng cho Việt Nam trong kỷ nguyên số?

Chuyển đổi số không chỉ đòi hỏi máy móc, nền tảng dữ liệu, mà còn cần con người đủ năng lực làm chủ công nghệ, sáng tạo và thích ứng. Câu hỏi đặt ra: Nhân lực hiện nay là điểm nghẽn cản trở, hay sẽ trở thành bệ phóng giúp Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số?

Nguồn nhân lực đông đảo nhưng chưa “chất”

Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, theo số liệu thống kê của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II/2025 đạt hơn 53 triệu người, tăng 169,8 nghìn người so với quý trước và tăng 553,2 nghìn người so với cùng kỳ 2024. Đây là nguồn lực dồi dào, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, lao động có việc làm tăng ổn định. Cũng theo số liệu thống kê, quý II/2025, số lao động có việc làm tăng từ 51,4 triệu người lên 52 triệu người so với cùng kỳ 2024. Mức tăng này quan sát được ở cả khu vực thành thị và nông thôn và cả 2 giới. Trong đó, lao động có việc làm khu vực thành thị là 20,2 triệu người, tăng 440,6 nghìn người; lao động khu vực nông thôn là 31,8 triệu người, tăng 103,5 nghìn người so với cùng kỳ 2024. Có thể thấy, thị trường lao động duy trì được đà tăng trưởng ổn định và tương đối đồng đều ở các khu vực.

[laodongthudo] Nhân lực chất lượng cao, chìa khóa bứt phá trong kỷ nguyên số

Chuyển đổi số không chỉ đòi hỏi máy móc, nền tảng dữ liệu, mà còn cần con người đủ năng lực làm chủ công nghệ, sáng tạo và thích ứng.

Ngoài ra, cơ cấu việc làm của người lao động tiếp tục dịch chuyển tích cực theo hướng giảm tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp và tăng tỷ trọng làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng. Trong quý II/2025, lao động có việc làm trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất với 40,8%, tương đương với 21,2 triệu người; tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,2%, tương đương với 17,3 triệu người; lao động khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất với 25,9%, tương đương với 13,5 triệu người.

Có thể thấy, lực lượng lao động dồi dào là một lợi thế quan trọng, song lại bộc lộ hạn chế về chất lượng. Cũng theo Cục Thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt trên 29% (quý II/2025). Con số này tuy đã cải thiện so với trước, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore. Đặc biệt, nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), phân tích dữ liệu lớn (Big Data), an ninh mạng… đang thiếu hụt nghiêm trọng. Tình trạng “cung không đủ cầu” khiến nhiều doanh nghiệp phải tuyển dụng từ nước ngoài hoặc chấp nhận đào tạo lại từ đầu.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế về chất lượng nhân lực số là sự chênh lệch giữa chương trình đào tạo và nhu cầu của doanh nghiệp. Dù nhiều trường đại học, cao đẳng, trung tâm nghề đã mở ngành học mới liên quan đến công nghệ, nhưng tốc độ cập nhật còn chậm, thiếu sự gắn kết với thị trường lao động. Nhiều sinh viên ra trường giỏi lý thuyết nhưng lúng túng khi làm việc thực tế. Thêm vào đó, tỷ lệ sinh viên chọn ngành STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán) còn thấp. Thói quen chọn ngành nghề theo tâm lý “an toàn” khiến nguồn cung nhân lực chất lượng cao càng khan hiếm.

Cơ hội “bứt phá” từ thách thức

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Việt Nam vừa đối diện áp lực cạnh tranh nhân lực quốc tế, vừa phải giải quyết tình trạng “chảy máu chất xám”. Nhiều sinh viên giỏi công nghệ thông tin sau khi tốt nghiệp lựa chọn làm việc cho các tập đoàn nước ngoài, hoặc ra nước ngoài học tập và định cư lâu dài. Điều này khiến doanh nghiệp trong nước càng khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài. Cùng với đó, sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ cũng đặt ra thách thức mới. Những kỹ năng hiện nay có thể nhanh chóng lỗi thời sau vài năm. Người lao động nếu không liên tục học tập, nâng cấp bản thân sẽ bị tụt lại phía sau.

Ông Vũ Ngọc Quỳnh, Trưởng bộ môn Công nghệ ô tô, Trung tâm Công nghệ ô tô và Đào tại lái xe, Đại học Công nghiệp Hà Nội cho rằng: “Điểm yếu nhất của lao động Việt Nam hiện nay là khả năng ngoại ngữ, kỷ luật công nghiệp và tư duy phản biện. Trong khi đó, đây lại là những yêu cầu quan trọng khi làm việc trong môi trường quốc tế, nơi các dự án xuyên biên giới ngày càng phổ biến”.

Còn theo PGS.TS Bùi Thị An, Chủ tịch Hội Nữ trí thức Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật nhiệt đới (nay là Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam), Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, bao trùm và dựa trên khoa học - công nghệ - đổi mới sáng tạo. Các mô hình kinh tế hiện đại như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn, cùng với sự nổi lên của các ngành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ sinh học, robot, vật liệu mới… đặt ra yêu cầu cấp thiết về nguồn nhân lực thích ứng nhanh, có chất lượng cao.

“Trong bối cảnh đó, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là yếu tố nền tảng mà còn là động lực quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian qua cho thấy chưa theo kịp yêu cầu của thời đại và kỳ vọng của chính các văn bản định hướng”, bà An cho biết.

PGS.TS Bùi Thị An cũng cho rằng, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là yếu tố nền tảng, mà còn là động lực quyết định sự thành công của quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần được tiếp cận như một chương trình quốc gia có tính chiến lược, với các nhóm giải pháp đồng bộ từ thể chế, đầu tư, đến hợp tác công - tư và hội nhập quốc tế…

Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công của việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm định hướng phát triển nhân lực trong các ngành công nghệ mũi nhọn, gần đây nhất, sau Nghị quyết 57, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 phê duyệt Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược đến năm 2035, định hướng đến năm 2045. Văn bản này xác định rõ các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển như: trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo…

Đây đều là những lĩnh vực đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế cao. Chủ trương đã có, tuy nhiên theo các chuyên gia nhận thấy, khó nhất là quá trình tổ chức triển khai thực hiện. Phải đầu tư nguồn lực đủ mạnh, “tới tầm và xứng tầm”, để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển các chuyên gia, công trình sư trình độ cao cho các ngành, lĩnh vực mới.

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh, nhân lực là một trong những yếu tố cốt lõi nhằm tạo đột phá để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó đòi hỏi có chính sách đặc biệt để thu hút, trọng dụng nhân tài công nghệ trong và ngoài nước bằng các cơ chế đột phá.

Nguồn: BÁO LAO ĐỘNG THỦ ĐÔ