Hội nhập quốc tế giáo dục đại học và vấn đề đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam
(TG) - Hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo nói chung và hội nhập quốc tế giáo dục đại học nói riêng là một trong những nhiệm vụ, giải pháp xác định tại Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, góp phần vào sự phát triển bền vững đất nước.
Sinh viên Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)
NHỮNG TÍN HIỆU KHỞI SẮC
Trong 10 năm qua, hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của Việt Nam đã mở rộng với hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và nhiều tổ chức quốc tế có uy tín; ký kết và triển khai thực hiện có hiệu quả hàng trăm Điều ước và Thỏa thuận quốc tế để thúc đẩy hợp tác về giáo dục, đào tạo; nghiên cứu khoa học; công nhận văn bằng hoặc chương trình học bổng, trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên; trao đổi chuyên gia hợp tác, đặc biệt với các nước đối tác lớn, chiến lược, truyền thống. Việt Nam cũng tham gia một số cơ chế tiểu vùng, khu vực và quốc tế như ASEAN, SEAMEO, ASEM, APEC, EU, UN, UNESCO, UNICEF, UNDP, WB, ADB.
Thực hiện chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế đối với giáo dục đại học, trong những năm qua các điều kiện bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam được đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa. cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và dịch vụ hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học được tăng cường; công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định được chú trọng, đến nay số cơ sở giáo dục đại học cũng như số chương trình đào tạo được kiểm định trong nước và quốc tế tăng mạnh trong những năm gần đây. Nhiều cơ sở giáo dục đại học từng bước khẳng định vai trò chủ chốt trong mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ quốc gia với số công bố khoa học có trong danh mục Scopus của toàn quốc tăng xấp xỉ 5 lần, trong đó các cơ sở giáo dục đại học đóng góp khoảng 85%. Ngày càng có nhiều cơ sở giáo dục đại học Việt Nam lọt vào các bảng xếp hạng quốc tế có uy tín, cho thấy xu hướng hội nhập quốc tế cũng như vị thế của các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam ngày một khởi sắc hơn.
Tính đến ngày 31/5/2023, cả nước có 1.198 chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học được kiểm định, trong đó có 805 chương trình đào tạo được kiểm định bởi các tổ chức trong nước và 393 chương trình đào tạo được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định nước ngoài. Có 183 cơ sở giáo dục đại học đạt kiểm định chất lượng, trong đó có 9 cơ sở được kiểm định bởi tổ chức kiểm định nước ngoài. Nhiều cơ sở giáo dục đại học chủ động phát triển chương trình đào tạo phù hợp với đặc điểm và thế mạnh riêng, đặc biệt thông qua triển khai đề án Chương trình tiên tiến giai đoạn 2006 -2016, nhiều mô hình, tiêu chuẩn quốc tế trong phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận dựa trên năng lực, chuẩn đầu ra (CDIO, ABET…) đã được tiếp thu và áp dụng thành công.
Theo số liệu báo cáo của Trung tâm thông tin và thống kê khoa học và công nghệ năm 2020, các cơ sở giáo dục đại học đóng góp 52,5% số cán bộ nghiên cứu và phát triển và 74,5% số cán bộ nghiên cứu và phát triển có trình độ tiến sĩ của cả nước. Theo báo cáo Quy hoạch của Bộ Khoa học và Công nghệ, so sánh với mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập, khối giáo dục đại học công lập có số nhân lực khoa học công nghệ (tính đội ngũ giảng viên) gấp 2,2 lần và số nhân lực khoa học công nghệ có trình độ tiến sĩ gấp 6,7 lần.
Đặc biệt, nhằm phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng Khung bảo đảm chất lượng ASEAN, góp phần quan trọng thúc đẩy tự chủ giáo dục đại học, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm, ngày 14/1/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 78/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”, đến tháng 8/2023, cả nước đã có 1.263 chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học được kiểm định và cấp chứng nhận.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đã xác định lộ trình áp dụng chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam cho các chương trình đào tạo. Thông qua việc mở rộng thực hiện các chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài và các chương trình khác dạy bằng ngoại ngữ đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cả giảng viên và sinh viên, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới. Các chương trình đào tạo bậc đại học yêu cầu sinh viên đạt bậc 3 khi tốt nghiệp các ngành không chuyên ngoại ngữ và bậc 5 đối với sinh viên tốt nghiệp các ngành chuyên ngoại ngữ. Một số chương trình đào tạo tiên tiến và chương trình đào tạo liên kết, đầu ra ngoại ngữ của sinh viên yêu cầu bậc 4 như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia Hà Nội áp dụng chuẩn đầu ra (bậc 5 cho sinh viên chuyên ngữ và bậc 3 cho sinh viên không chuyên) ở hầu hết các trường thành viên; Học viện Ngoại giao công bố chuẩn đầu ra ngoại ngữ đối với các ngành đào tạo: cử nhân ngôn ngữ Anh cần đạt tối thiểu IELTS 6.5; cử nhân các ngành khác đạt 5.5 IELTS,…
Năng lực sử dụng ngoại ngữ của sinh viên ngày càng được cải thiện rõ rệt. Nhiều sân chơi, các câu lạc bộ tiếng Anh, hoạt động ngoại khóa tiếng Anh cho học sinh, sinh viên được tổ chức, góp phần giúp học sinh thực hành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Theo xếp hạng của tổ chức giáo dục quốc tế EF Education First công bố năm 2022, Việt Nam xếp hạng 60 trên tổng số 111 quốc gia, vùng lãnh thổ về chỉ số thông thạo tiếng Anh (tăng 6 bậc cho với năm 2021), xếp thứ 7 trên 24 quốc gia ở Châu Á tham gia xếp hạng.Các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam cũng tích cực thu hút giáo viên, giảng viên nước ngoài thông qua hợp tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thực hiện các dự án, hiện có khoảng 3.000 lượt giảng viên nước ngoài và khoảng 150 tình nguyện viên vào làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, (tăng khoảng gấp 2 lần so với giai đoạn 2013-2018); khoảng 22.000 lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại các cơ sở giáo dục của Việt Nam theo diện học bổng Hiệp định, các kênh học bổng khác và tự túc (chưa tính các lưu học sinh vào học tập, nghiên cứu và bồi dưỡng ngắn hạn. Nhiều lưu học sinh nước ngoài sau khi tốt nghiệp về nước đã tham gia tích cực vào việc phát triển quan hệ văn hóa, giáo dục, ngoại giao, kinh tế, chính trị,... với Việt Nam, qua đó không chỉ góp phần giới thiệu văn hóa, giáo dục của Việt Nam ra thế giới mà còn giúp thế giới đến với Việt Nam nhiều hơn.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục đại học nói chung và hội nhập quốc tế giáo dục đại học để thực hiện đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Chúng ta còn thiếu những nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quản lý, khoa học - công nghệ - kỹ thuật; việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng sáng tạo cho người học, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp phải đào tạo lại mới đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu những công việc mới, có khả năng thích ứng trong điều kiện nền kinh tế số, đổi mới công nghệ chưa tạo được bước đổi mới có tính đột phá trong chất lượng nguồn nhân lực. Năng suất lao động của Việt Nam nhìn chung còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới...
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM ĐÁP ỨNG XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI
Để thích ứng với những bước tiến nhảy vọt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu để phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới, có nhiều vấn đề đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là:
Thứ nhất, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra nhu cầu đào tạo rất lớn cho giáo dục đại học nói chung và cho mỗi cơ sở giáo dục đại học nói riêng.
Trước hết, phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất, vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Đây là yêu cầu cấp bách đặt ra cho nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Do đó, giáo dục và đào tạo phải chuyển nhanh từ giáo dục nặng về trang bị kiến thức sang một nền giáo dục giúp phát triển năng lực thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học. Tại mỗi trường đại học sẽ hình thành các mô hình học tập mới cùng sự phát triển của khoa học - công nghệ, thay thế dần các phương pháp dạy- học truyền thống.
Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, internet, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử… dự báo sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Do vậy, giáo dục đại học sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục ngành nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt ngành, chuyên ngành cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành, chuyên ngành đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo ở mức độ cao hơn cho nền kinh tế 4.0.
Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở giáo dục đại học. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, từ đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy truyền thống có thể không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của công nghệ, người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống, mà các nhà trường phải xây dựng các thư viện điện tử; các nhà trường phải thay đổi mô hình giảng dạy, như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giảng viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua internet.
Bên cạnh đó, những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo đại học. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức; sinh viên có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới để trở thành công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh và kết quả học tập đối với sinh viên không còn là bằng cấp trên giấy nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, là trao đổi tri thức, sáng tạo, những giá trị đóng góp cho xã hội. Các trường đại học sẽ chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn học cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở đào tạo với tổ chức, doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giảng viên của các trường đại học. Khi đó, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều được số hóa tại một nơi lưu trữ.
Hơn nữa, trong môi trường cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mỗi sinh viên có nhu cầu và năng lực học tập khác nhau sẽ được thiết kế tiến độ học tập riêng biệt, phù hợp với từng người. Các phần mềm đào tạo sẽ thay thế từng phần hoặc toàn bộ lượng kiến thức của giáo trình khi học trên lớp. Thay vì tập trung cung cấp cho người học các kiến thức, kỹ năng, mô hình giảng dạy mới chủ yếu hướng dẫn sinh viên cách tự học, cách tư duy và xử lý các tình huống trong cuộc sống, qua đó hình thành năng lực tiếp cận và giải quyết vấn đề. Đối với đội ngũ giảng viên, hệ thống quản lý nhà trường có sự hỗ trợ của công nghệ sẽ cung cấp hệ thống dữ liệu giúp họ theo dõi diễn biến, sự tiến bộ của mỗi lớp học, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên. Do đó, giảng viên cần phải nỗ lực học tập, nghiên cứu để có thể tận dụng và làm chủ công nghệ, để những công cụ này hỗ trợ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công tác đào tạo.
Đồng thời, trước những đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng cao, để phù hợp với môi trường sản xuất mới, các hoạt động đào tạo của nhà trường đại học càng phải được gắn kết với tổ chức, doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Vì vậy, cần đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Tăng cường việc gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, thông qua đó hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.
GÓP PHẦN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Để thực hiện tốt quan điểm của Đảng ta về giáo dục và đào tạo, đưa giáo dục đại học trở thành thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của mỗi quốc gia, là động lực then chốt thúc đẩy phát triển đất nước, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận công bằng với giáo dục đại học chất lượng tốt, trong thời gian tới, hội nhập quốc tế giáo dục đại học Việt Nam cần nghiên cứu một số xu hướng như sau:
Một là, quốc tế hóa giáo dục đại học. Đây là xu hướng được xem là phương tiện để phát triển tầm nhìn và sức ảnh hưởng của các cơ sở giáo dục đào tạo và của mỗi quốc gia. Quốc tế hóa bao gồm nhiều hoạt động như: Trao đổi sinh viên và giảng viên, hợp tác nghiên cứu quốc tế, quốc tế hoá chương trình, bằng cấp, và giao lưu văn hóa,… giữa các cơ sở giáo dục đại học với các đối tác quốc tế. Quốc tế hóa giúp nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của quốc gia. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có các chính sách hiệu quả nhằm thúc đẩy quốc tế hóa trong giáo dục đại học. Việt Nam cũng đã có những bước tiến trong lĩnh vực này, như việc ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác với các nước bạn, tham gia vào các mạng lưới và tổ chức giáo dục quốc tế.
Hai là, hợp tác nghiên cứu khoa học. Hợp tác nghiên cứu trong khoa học là xu hướng được coi là một trong những yếu tố then chốt để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Hợp tác nghiên cứu khoa học bao gồm việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, nguồn lực, thiết bị, máy móc,... giữa các nhà khoa học, nhóm nghiên cứu, viện nghiên cứu thuộc các cơ sở giáo dục đại học khác nhau trong và ngoài nước. Hợp tác nghiên cứu khoa học giúp mở rộng phạm vi và độ sâu của các nghiên cứu, tăng cường khả năng sáng tạo và đổi mới, góp phần vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chương trình và dự án hợp tác nghiên cứu với các đối tác quốc tế.
Ba là, du học và các chương trình giao lưu văn hoá và trao đổi sinh viên. Đây là một trong những biểu hiện của sự toàn cầu hóa và quốc tế hoá trong giáo dục. Quá trình du học và các chương trình giao lưu văn hoá và trao đổi sinh viên bao gồm: Sinh viên từ một quốc gia đi du học hoặc theo học các chương trình liên kết ở một quốc gia khác. Xu hướng này giúp sinh viên tiếp xúc với các nền văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục khác nhau, mở rộng kiến thức và kỹ năng, nâng cao cơ hội việc làm và hợp tác quốc tế. Theo thống kê của UNESCO, số lượng sinh viên quốc tế trên thế giới đã tăng từ 2 triệu sinh viên (năm 2000) lên gần 6 triệu (năm 2018). Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có số lượng sinh viên đi du học cao, đứng thứ 6 trên thế giới với gần 200.000 sinh viên (theo số liệu năm 2020).
Bốn là, hợp tác triển khai các chương trình đào tạo liên kết quốc tế và bằng kép. Đây là hình thức hợp tác giáo dục quốc tế phổ biến hiện nay của các cơ sở giáo dục đại học. Các chương trình liên kết quốc tế và bằng kép bao gồm việc hai hoặc nhiều cơ sở giáo dục đại học thuộc các quốc gia khác nhau thiết kế và thực hiện một chương trình đào tạo chung, cho phép sinh viên theo học một phần hoặc toàn bộ chương trình ở các cơ sở đó và nhận được một hoặc hai bằng cấp tương ứng. Các chương trình liên kết quốc tế và bằng kép giúp tăng cường sự linh hoạt và đa dạng của các chương trình đào tạo, đáp ứng nhu cầu của sinh viên và xã hội, nâng cao uy tín và chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chính sách và quy định nhằm khuyến khích và quản lý các chương trình liên kết và bằng kép.
Năm là, hợp tác thành lập cơ sở giáo dục đại học quốc tế và học viện quốc tế. Quá trình này là sự mở rộng và phát triển của giáo dục quốc tế, qua đó, các trường đại học quốc tế và học viện quốc tế là các cơ sở giáo dục đại học được thành lập bởi một hoặc nhiều tổ chức giáo dục thuộc một quốc gia khác hoặc có sự tham gia của các tổ chức giáo dục quốc tế. Các trường đại học quốc tế và học viện quốc tế thường có các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ giảng dạy, thu hút sinh viên và giảng viên từ nhiều quốc gia khác nhau. Các trường đại học quốc tế và học viện quốc tế giúp mang lại sự lựa chọn cho sinh viên, góp phần vào việc cải thiện chất lượng giáo dục, thúc đẩy sự cạnh tranh và hợp tác trong ngành giáo dục. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chính sách và điều kiện thuận lợi để phát triển các trường đại học quốc tế và học viện quốc tế.
Sáu là, nghiên cứu mô hình hợp tác quốc tế từ một số quốc gia phát triển trên thế giới vận dụng cho giáo dục đại học Việt Nam.
Hàn Quốc là một trong những quốc gia đi đầu trong khu vực châu Á đã thực hiện các biện pháp để cải thiện chất lượng giáo dục bao gồm: Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông; Nâng cao năng lực giáo viên, Đẩy mạnh công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục; Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giáo dục. Hàn Quốc có những chính sách khuyến khích các trường đại học hội nhập quốc tế bằng cách xây dựng các trường đại học toàn cầu, thu hút sinh viên quốc tế, và tham gia vào các mạng lưới giáo dục quốc tế.
Malaysia đã xây dựng một chiến lược giáo dục quốc gia nhằm biến quốc gia này thành một trung tâm giáo dục trong khu vực và quốc tế. Malaysia đã thực hiện các hoạt động như: Thiết lập các trường đại học con (đại học thành viên, chi nhánh) của các nước khác; Mở rộng các chương trình liên kết và chuyển tiếp với các trường đại học nước ngoài; Cải thiện chất lượng và uy tín của các trường đại học trong nước; Thu hút sinh viên quốc tế bằng cách cung cấp các học bổng chính phủ và visa một cách linh hoạt.
Liên bang Nga đã đặt ra mục tiêu phát triển giáo dục, và quốc tế hoá giáo dục trở thành một ngành xuất khẩu chiến lược của nước này. Nga đã thực hiện các hoạt động như: xây dựng các trung tâm giáo dục quốc tế, phát triển các chương trình giáo dục song ngữ và đa ngữ, tham gia vào các chương trình liên kết và trao đổi sinh viên với các quốc gia khác, và cải thiện chất lượng và uy tín của các trường đại học trong nước.
Phần Lan đã được công nhận là một trong những nền giáo dục hàng đầu thế giới, với những thành tích cao trong các bài kiểm tra quốc tế như PISA. Phần Lan đã áp dụng một mô hình giáo dục toàn diện, trong đó giáo dục được coi là một quyền con người và một yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Phần Lan cũng đã thúc đẩy hội nhập quốc tế trong giáo dục bằng cách tham gia vào các chương trình hợp tác như Erasmus+, Bologna, và EHEA.
Giờ thực hành của sinh viên Đa khoa năm thứ hai, Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Ảnh minh họa. (Ảnh: Quý Trung/TTXVN)
Trung Quốc đã có những bước tiến lớn trong việc nâng cao chất lượng và quy mô của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Trung Quốc đã thực hiện các hoạt động như: xây dựng các trường đại học hàng đầu thế giới, phát triển các chương trình giáo dục quốc tế, hỗ trợ các trường đại học trong nước tham gia vào các mạng lưới và xếp hạng quốc tế, và thu hút sinh viên quốc tế bằng cách cung cấp các học bổng và cơ sở vật chất.
Từ những kinh nghiệm đúc rút được trong hội nhập giáo dục đại học quốc tế trong những năm qua và cập nhật xu hướng hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học ở các quốc gia phát triển hiện nay cho thấy hội nhập quốc tế là một xu hướng tất yếu và có lợi cho sự phát triển của giáo dục và đào tạo.
Xu thế hội nhập quốc tế đối với giáo dục đại học ở Việt Nam cần có những phương pháp tiếp cận và quy trình hành động phù hợp với bối cảnh, điều kiện và mục tiêu phát triển của đất nước và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo. Song cần dựa trên một số nguyên tắc: (1) Hội nhập quốc tế phải được thực hiện một cách có chọn lọc tại từng quốc gia; (2) Mỗi quốc gia cần xây dựng kế hoạch hội nhập quốc tế và có kiểm soát đối với mỗi hoạt động trong kế hoạch đó; (3) Hội nhập quốc tế phải được kết hợp với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá và giáo dục truyền thống nội tại của mỗi quốc gia; (4) Hội nhập quốc tế phải được coi là một cơ hội để học tập, trao đổi và hợp tác giữa các quốc gia, giữa các khu vực với nhau.
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy hội nhập sâu rộng, mở rộng hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu quốc tế hóa giáo dục trong bối cảnh hiện nay, trước hết cần đổi mới chính sách về hợp tác và đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, nhất là với các đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện nhằm khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước và nước ngoài tận dụng cơ hội từ việc tham gia các hiệp định thương mại đa phương, song phương để đẩy mạnh hoạt động hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo của Việt Nam trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, luật pháp Việt Nam. Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước; đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Tiếp tục triển khai có hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, nhất là đào tạo giảng viên trình độ tiến sĩ và chuyên gia các ngành kỹ thuật, công nghệ mũi nhọn một cách thiết thực, nhằm giữ gìn, khơi dậy và phát huy tinh thần hướng về quê hương, đất nước, xây dựng hình ảnh, vị thế Việt Nam với bạn bè trong khu vực và trên thế giới./.
TS. Lê Thị Mai Hoa
TS. Trần Đình Minh
Ban Tuyên giáo Trung ương